Bấm để nghe audio thuyết minh
Một trong những ngôi chùa có lịch sử lâu đời nhất TPHCM. Được xây dựng vào khoảng thế kỉ XVIII. Hàng năm, vào ngày 23/03 âm lịch, Hội quán tổ chức long trọng lễ dâng hương Vía Bà.
Thông tin cơ bản
| Địa chỉ | 710 Nguyễn Trãi, Phường 11, Quận 5, Hồ Chí Minh |
| Giờ mở cửa | 08:00 – 16:00h mỗi ngày |
| Cấp | Di tích Lịch sử cấp Quốc gia năm 1993 |
Giới thiệu di tích
Hội quán Tuệ Thành (còn gọi là Chùa Bà Thiên Hậu hay Chùa Bà Chợ Lớn) hiện tọa lạc tại số 710 đường Nguyễn Trãi, Phường 11, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. Được bộ văn hóa và thông tin công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 1993.
Tuệ Thành có nghĩa là thành phố dồi dào lúa gạo, xuất phát từ truyền thuyết một ông tiên đã ban cho người dân Quảng Châu nhánh lúa thần diệu, giúp cho Quảng Châu sung túc, giàu có.
Do quá lâu đời và không có tài liệu cụ thể nên không biết chính xác hội quán được xây dựng vào năm nào. Chỉ biết rằng tại khu vực trung tâm của Sài Gòn xưa – khu vực Chợ Lớn ngày nay, người Hoa quê ở Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông đã xây dựng Hội quán Tuệ Thành làm nơi hội họp, quản lý di dân, giúp đỡ đồng hương, đồng thời cũng là nơi thờ cúng Thiên Hậu, để tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với bà vì bà đã phù hộ bình an cho họ trong những ngày lênh đênh trên biển để có thể đến Việt Nam buôn bán, định cư.
Tại Hội quán còn lưu giữ một đại hồng chung, trước hội quán, phía bên kia đường vẫn có thêm hồ cá phóng sinh để tụ khí, trấn mạch, một bia đá ở tiền điện ghi lại sự kiện trùng tu năm 1830. Và được trùng tu vào các năm 1828, 1841, 1859, 1908, 1972, 1998.
Hội quán Tuệ Thành có dạng nhà khung gỗ, tường hồi chịu lực, mái lợp ngói âm dương.
Bố cục mặt bằng Hội quán Tuệ Thành gồm khoảng sân nhỏ phía trước, lần lượt từ cửa chính vào là tiền điện, thiên tỉnh, trung điện, nhà hương và chính điện. Hai dãy Đông sương gồm phòng họp, phòng khách và phía cuối, ngang với chính điện, là điện thờ Thần Tài và Tây sương nằm dọc hai bên, gồm phòng khách và điện thờ Thần Tài.
Bên phải hội quán là trường Trung học cơ sở Mạch Kiếm Hùng, nguyên là trường tiểu học Tuệ Thành được xây dựng vào năm 1911 kéo dài từ tiền điện tới chính điện và được ngăn cách bằng hành lang.
Hội quán Tuệ Thành thật “bắt mắt” bởi các phù điêu gốm trang trí trên tường, trên mái ngói. Tầng trên của các phù điêu đều lấy đề tài “lưỡng long tranh châu” để trang trí, còn hầu hết các tầng dưới khác nhau với các điển tích “Tây du ký”, “Thiết Phiến cung”, “Bát Tiên quá hải”, “Ngọc Hoàng Đại Đế”, “Bao Công xử án”, “Hán Sở tranh hùng”… xen kẽ với hoa lá, long, lân, qui, phụng…
Mảng tường bên dưới các phù điêu gốm đắp nổi hình bầy nai, cặp gà trống mái bên cành hoa mẫu đơn, cá hóa long, long mã, sư tử… Ở các đầu đao gắn các tượng gốm ông Nhật, bà Nguyệt, rồng có cánh, Võ Tòng đả hổ… Sân trước hội quán, ngoài hai tượng sư tử đá chầu hai bên còn có các phù điêu gốm, tượng đắp nổi bằng ô đước và các bài thơ Đường nổi tiếng trang trí trên bờ tường dọc hai bên sân.
Cửa vào hội quán chạm bốn chữ Hán “Tuệ Thành hội quán”. Trên vách mặt tiền là tranh vẽ “Trúc lâm thất hiển”. Phần dưới mái hiên trang trí tượng kỳ lân và chạm trổ dây hoa, lân, phụng… Đặc biệt là bức phù điêu gỗ treo dưới mái hiên, trước cửa chính, được chạm trổ ở cả hai mặt và ghi các dòng chữ: “Tây Liêu quốc”, Tô Lộc thái tử”, “Phù Tang”, “Thát Đát hoàng thúc”, “Đông Hải Long Vương kỳ” bên cạnh hình “Bát Tiên quá hải”, “Hải Long Vương binh tướng”…
Chắn ngang tầm nhìn từ ngoài vào là một trung môn được thiết kế như một khung cửa có hai cánh cửa, đặt gần cuối tiền điện.
Tiền điện có hai khám thờ ở sát hai góc tường và đối diện nhau. Bên trái thờ Môn Thần (tức Thần Hữu Đức Ty Chuyên), bên phải thờ Phúc Đức Chính Thần (tức Thần Thổ Địa).
Trung điện có diện tích khá rộng. Phía ngoài bày một hương án lớn, mặt trước chạm phù điêu “Lục quốc phong tướng”. Trên hương án bày bộ ngũ sự pháp lam được đúc vào năm Quang Tự thứ 12 (1886). Cao phía trên hương án treo bức hoành phi “Hàm hoằng quang đại” (Ân đức bao la). Ngoài ra còn có hai tủ kính, một để trưng bày kiệu gỗ được dùng rước Thiên Hậu trong ngày vía Bà và một tủ kính trưng bày các ống phun nước chữa cháy bằng đồng do Hội quán Tuệ Thành đặt làm ở tỉnh thành Việt Đông, Trung Hoa.
Kế tiếp trung điện là nhà hương (hương đình). Gian giữa nhà hương có ba hương án đặt song song nhau. Hương án ngoài cùng bày năm lư hương để dâng hương Thiên Hậu Nguyên Quân, Long Mẫu Nương Nương và Kim Hoa Nương Nương. Dưới mái nhà hương treo rất nhiều những khoanh nhang vòng, được thắp liên tục để cầu xin bình an, may mắn.
Chính điện được tôn cao hơn các điện thờ phía trước, chia làm ba gian bởi các thân cột tròn. Gian thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu được bài trí trang trọng ở gian giữa. Dọc trước hai bên hương án là hai bộ bát bửu, mỗi bộ gồm tám loại binh khí có cán bằng gõ, lưỡi bằng đồng, mỗi loại binh khí được đúc cùng một đồ vật trong tám loại đồ vật tương trưng cho sự phong lưu, tao nhã, trí thức như quả bầu, cuốn thư, giỏ hoa, tháp bút…
Sâu vào phía trong lại có thêm một hương án nữa đặt trước khám thờ Thiên Hậu để dâng lễ vật cúng tế. Khám thờ Thiên Hậu được chạm trổ tinh tế rồng, phụng, mai – điểu, dây hoa… Có ba tượng thờ Thiên Hậu được đặt theo một hàng dọc từ thấp lên cao, hai bên là hai ngọc nữ đứng hầu. Chếch về bên trái là bài vị “Sắc phong Hộ Quốc Thiên Hậu Nguyên Quân thần vị”.
Hai tượng nhỏ Thiên Lý Nhãn và Thuận Phong Nhĩ đứng trước hàng chữ Hán chạm ở mặt trước khám thờ:
“Hậu đúc dữ thiên, sùng điện các, Thánh ân tùy địa, tịnh phong triều”
(Đức của Bà vời vợi ngang trời, tôn sùng bằng đền miếu, Ơn của Thánh trải ra khắp chốn, nơi nơi gió lặng sóng yên).
Thấp bên trái bệ đặt khám thò Thiên Hậu có bàn thờ Thổ Địa.
Gian bên trái thờ Long Mẫu Nương Nương, chạm trổ đơn giản, có tượng thờ Long Mẫu Nương Nương và hai ngọc nữ cùng bài vị “Sắc phong Hộ Quốc Thông Thiên ân tặng Hiển Đức Long Mẫu Nương Nương”, ở mặt trước, bên trên bày một bộ ngũ sự bằng đồng được làm vào năm 1877.
Kim Hoa Nương Nương tức Bà Mẹ Thai Sinh, vị nữ thần phù hộ việc sinh đẻ, nuôi dạy con cái được thờ ở gian bên phải của chính điện, được bài trí, chạm trổ giống như khám thờ, án thờ Long Mẫu Nương Nương nhưng bộ ngũ sự có niên đại 1860.
Ngoài tượng thờ Kim Hoa Nương Nương và tượng hai ngọc nữ còn có bài vị “Kim Hoa Phổ Chủ Huệ Phước Phu Nhân”. Cạnh đó là đại hồng chung đúc năm Càn Long thứ 60 tức năm 1795 và đại hồng chung đúc năm Mậu Ngọ 1878.
Từ chính điện có lối ra bên trái để vào điện Quan Đế và lối ra bên phải để vào điện Thần Tài.
Khám thờ Quan Đế (Quan Thánh Đế Quân) đặt trên bệ gạch, chạm trổ lưỡng long triều nhật, mai, cúc, dây hoa … Tượng Quan Đế ngồi trên ngai có Quan Bình và Châu Xương đứng hầu.
Khám thờ Thần Tài (Tài Bạch Tỉnh Quân) cũng được đặt trên bệ gạch, được chạm trổ rồng, phụng, bông sen, hoa lan… Tượng thờ Thần Tài thể hiện một ông lão mặt đen, râu dài, ngồi trên ngai.
Nhìn chung hai điện thờ này được bài trí đơn giản nhưng không kém phần tôn nghiêm.
Trải qua hơn hai thế kỷ tồn tại, Hội quán Tuệ Thành vẫn luôn gìn giữ được nét đẹp của một công trình kiến trúc cổ, sự tinh tế, sắc xảo của nghệ thuật chạm khắc gỗ trên các phù điêu hương án, các bao lam, khám thờ, liễn đối; nghệ thuật hội họa và thư pháp trên các tranh tường và đặc biệt là nghệ thuật, kỹ thuật chế tác các phù điêu gốm, dù trăm năm mưa nắng vẫn giữ gần như nguyên vẹn đường nét và màu sắc của từng chỉ tiết.
Năm 2012, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thành phố, Hiệp hội Du lịch Thành phố, Công ty cổ phần thương mại doanh nhân Việt – VEC công bố chương trình “Thành phố Hồ Chí Minh 100 điều thú vị” và bình chọn Hội quán Tuệ Thành là công trình kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu.



