Hội quán Phước An

Bấm để nghe audio thuyết minh

Được xây dựng trên nền tảng ngôi miếu cổ An Hòa từ năm 1865 và được trùng tu vào năm 1902.

Thông tin cơ bản

Địa chỉ184 đường Hồng Bàng, Phường 12, Quận 5, Hồ Chí Minh
Giờ mở cửa08:00 – 16:00h mỗi ngày
CấpDi tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp Thành phố 2009

Giới thiệu di tích

Hội quán Phước An tọa lạc tại số 184 đường Hồng Bàng, Phường 12, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh và đã được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh công nhân Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Thành phố năm 2009 theo Quyết định số 1767/QĐ-UBND ngày 24 tháng 4 năm 2009.

Hội quán Phước An do người Minh Hương có nguyên quán ở bảy phủ thuộc các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến và Chiết Giang của Trung Hoa sinh sống ở vùng chợ Sài Gòn xưa, Chợ Lớn ngày nay.

Hội quán Phước An nguyên là Hội quán An Hòa (còn gọi là An Hòa cổ miếu, thờ Quan Thánh Đế Quân). Năm 1901 ông Quách Lai Kim và hai mươi thương nhân cùng hội viên, bá tánh đã quyên góp để trùng tu và đặt là tên Hội quán Phước An.

Hội quán tọa lạc tại khu vực sầm uất, trước mặt là đường Hồng Bàng, phía sau giáp đường Tân Hưng. Trên khuôn viên gần 1000m2, chính điện được bố trí ở phía Bắc, tiền điện ở phía Nam, trung điện nằm giữa tiền điện và chính điện. Hai bên là Đông sương, Tây sương.

Mái các khối nhà đều được lợp ngói âm dương, giữa hai hàng ngói dương là một hàng ngói âm, các viên ngói dương được làm nhỏ hơn ở một đầu để đặt vừa vào viên ngói kế tiếp tạo thành một đường dài hình ống. Cuối hàng ngói dương có một nắp đậy hình tròn in nổi hoa văn, cuối hàng ngói âm là mảnh gốm hình như cái yếm được in nổi hình hoa mẫu đơn. Trên đường bờ nóc mái tiền điện và mái chính điện trang trí phù điêu gốm tạo hình lưỡng long triều nhật, phụng hoàng, bướm hoa, cá hóa long… Đầu kìm gắn tượng kỳ lân, đầu đao có tượng ông Nhật, tượng bà Nguyệt.

Qua khỏi cổng là vào khoảng sân nhỏ thờ Di Lặc Bồ Tát và Quan Âm Bồ Tát. Tượng Di Lặc Bồ Tát ngồi trên hòn non bộ bên trái sân, còn tượng Quan Âm Bồ Tát đứng trên tòa sen ở góc phải sân.

Gian trái tiền điện bày một giá gỗ chạm trổ công phu, phía trên là một trống lớn, dưới cái trống treo một đại hổng chung do hội quán An Hòa đúc từ 1873. Gian bên phải tiền điện thờ tượng ngựa Xích Thố của Quan Đế.

Trung điện có diện tích không rộng lắm nhưng được trang trí khá nhiều hoành phi, liễn đối khái quát chí khí và sự nghiệp của Quan Đế.

Giữa trung điện có một đỉnh hương lớn, hai bên đỉnh là cặp tượng hạc đứng trên lưng rùa làm bằng xi măng khảm mảnh sứ. Phía trước có giá gỗ hình nan quạt trưng bày tám món binh khí bằng đồng, hai bên là hai bộ bát bửu với mười tám món binh khí bằng đồng.

Chính điện được bài trí trang nghiêm, lộng lẫy với bao lam, khám thờ, phù điêu, hoành phi, liễn đối… sơn son thếp vàng. Đặc biệt là bốn tấm biển gỗ lớn chữ “Trung”, “Hiếu”, “Nghĩa”, “Dũng” treo vách. Sáu cột lớn bằng gỗ quí chia không gian điện làm ba gian.

Gần thềm tam cấp có một dãy ba hương án bày theo hàng ngang. Hương án chính giữa trang trí phù điêu “Phước An đại hội” với đỉnh trầm hình rồng và tiên đồng. Hai hương án hai bên chạm trổ ngựa xe, quân lính, và các linh thú.

Chính điện thờ Quan Đế với tượng tạo hình một dũng tướng ngồi trên ngai, mặc áo gấm xanh, hai bên tượng người hầu.

Gian trái của chính điện thờ Ngũ Hành Nương Nương, năm vị nữ thần biểu tượng của năm yếu tố cấu thành vạn vật, đó là kim loại, gỗ, nước, lửa, đất. Gian bên phải của chính điện thờ Phúc Đức Chính Thần, vị thần bảo hộ đất đai địa phương.

Đông sương là văn phòng và phòng ở của hội viên. Phòng tiếp khách, phòng làm việc, hội họp bố trí ở Tây sương. Hai dãy nhà đối diện nhau, hướng vào trung điện, có phong cách kiến trúc mang nét Tây phương với các cột tròn và các mảng hoa văn hoa, lá… trên tường.

Dù được xây dựng muộn hơn so với các hội quán khác trong khu vực nhưng Hội quán Phước An vẫn không hề thua kém về giá trị kiến trúc, nghệ thuật trang trí, đặc biệt là nghệ thuật chạm khắc gỗ. Bằng các kỹ thuật chạm lộng, chạm nổi, chạm bong, nghệ nhân đã tạo ra các khám thờ, bao lam, phù điêu hương án với các tượng người, tượng vật, hoa lá, chim muông, tôm cá… thật sinh động, tinh tế. Trên 24 bức hoành phi, 4 tấm biển gỗ lớn và 8 cặp liễn đối, các nghệ nhân đã dùng kỹ thuật chạm chìm, chạm nổi để tạo nên các dây hoa, rồng, phụng xen với các nét chữ Hán mạnh mẽ hoặc uyển chuyển, bay bướm, truyền tải tấm lòng tôn kính đối với chí khí và sự nghiệp của vị thánh, thần được tôn thờ tại đây.

Ngày Vía Quan Đế (ngày 13 tháng Giêng) và ngày Quan Đế hiển thánh được tổ chức rất trọng thể, thu hút rất nhiều thiện nam tín nữ mang hai dòng máu Hoa – Việt đến chim bái, tưởng nhớ đến tiền nhân, cội nguồn.

Lên đầu trang