Bấm để nghe audio thuyết minh
Được xây dựng trước năm 1809 Hàng năm, Hội quán có hai lễ lớn là lễ Vía Bà Thiên Hậu vào ngày 23/03 và ngày Cúng Cô Hồn vào ngày 09/07 Âm lịch.
Thông tin cơ bản
| Địa chỉ | 802 Nguyễn Trãi , Phường 14, Quận 5, Hồ Chí Minh |
| Giờ mở cửa | 08:00 – 16:00h mỗi ngày |
| Cấp | Di tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp Quốc gia năm 2001 |
Giới thiệu di tích
Hội quán Hà Chương tạo lạc tại Số 802 đường Nguyễn Trãi, Phường 14, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh và đã được Bộ Văn hóa và Thông tin công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia năm 2001 theo Quyết định số 52/2001/QĐ BVHTT ngày 28 tháng 12 năm 2001.
Hội quán Hà Chương dù đẹp bậc nhất, nhì trong vùng nhưng không rõ được xây dựng năm nào. Một liễn đối ở gian thờ Thiên Hậu ghi năm Gia Khánh Kỷ Tỵ (1809), nhân dịp trùng tu, cho thấy hội quán đã có từ trước. Hiện vách tiền điện còn hai bia đá lập năm 1848 và 1871, ghi nhận các đợt trùng tu. Trong bia năm 1848, hội quán được gọi là Hà Chương.
Hội quán vừa là trụ sở bang hội người Hoa gốc Chương Châu, vừa là nơi thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu, nên còn gọi là chùa Bà Hà Chương hay chùa Bà Ma Hậu. Ngoài Thiên Hậu, hội quán thờ nhiều vị thần khác: Chúa Sinh Nương Nương (bảo trợ sinh nở, nuôi dạy con cái), Phúc Đức Chính Thần (Thổ Thần), Quan Âm Bồ Tát, Quan Thánh Đế Quân (biểu tượng trung, hiếu, nghĩa, dũng), Ngọc Hoàng Đại Đế, Tề Thiên Đại Thánh, Thái Tuế Gia Gia (thần cai quản năm tháng, tuổi tác), Bao Công (quan thanh liêm đời Tống), Thành Hoàng (Thổ Địa cai quản địa phương) và Thần Tài (phù trợ kinh doanh, buôn bán).
Diện tích khuôn viên hội quán khoảng 1500m2, khoảng sân phía trước rộng khoảng 200m2. Mặt bằng kiến trúc hội quán gồm sân trước, tiền điện, thiên tỉnh, trung điện và chính điện, hai bên là hai dãy nhà Đông sương và Tây sương.
Hội quán được xây dựng chủ yếu từ gỗ, đá, gạch, ngói, mang lối kiến trúc của người Hoa Phúc Kiến. Mái lợp ngói ống, diềm mái bằng ngói thanh lưu ly. Mái tiền điện được trang trí tinh xảo, với tượng người cưỡi long mã vượt qua vòng lửa. Ở hai đầu kìm là hai tượng rồng, một đứng thẳng, một ngoạm đầu kìm. Dọc bờ nóc gắn tượng rồng, phượng, phù điêu gốm và dây hoa. Trên đầu đao là các mô hình tòa thành, tiểu tượng thành quách, người và vật, được làm từ gốm, mảnh gốm nhiều màu sắc, tạo sự sinh động, lấp lánh.
Toàn bộ mái ngói của hội quán được đặt trên hệ thống vì kèo gỗ và bộ cột gỗ. Hai cột hiên tiền điện và hai cột hiên trung điện được làm từ đá, chạm trổ tinh tế với đề tài cá chép vượt vũ môn, được nghệ nhân khắc họa chi tiết tỉ mỉ. Thân rồng uốn dài dọc theo thân cột, cao khoảng 2 mét, chở bốn vị tiên trong nhóm Bát Tiên. Chân tảng kê cột hình bát giác, chạm nổi các hình cuốn thư, quả bầu, quạt vả, ống tiêu…
Phía trên cửa vào là biển chữ “Hà Chương hội quán”. Vách mặt tiền chạm nổi hình long mã, bộ tứ bình… Chầu hai bên ngưỡng của là cặp tượng kỳ lân. Ngoài cửa chính còn có thêm hai cửa bên, mỗi cửa có hai thạch cầu (cầu bằng đá) đặt hai bên.
Nội thất hội quán được trang trí bằng nhiều tác phẩm điêu khắc gỗ có giá trị nghệ thuật, từ bao lam điện thờ, bình phong, khám thờ, hoành phi, liễn đối đến các vì kèo, ván nong, đầu dư, lá gió. Đề tài chạm trổ phổ biến là mẫu đơn – chim trĩ và các điển tích Trung Hoa. Những nét chạm uyển chuyển, tinh tế, tạo hình long, lân, qui, phụng, quân, tướng, người, xe, xen kẽ với búp măng, trái lựu, con tôm, con cá, mang đến cho điện thờ vẻ trang nghiêm, thanh bình, trù phú.
Tiền điện thờ Ngọc Hoàng Đại Đế, với án thờ đặt chính giữa, hướng ra cửa. Mặt trước hương án trang trí phù điêu chạm bong điển tích “Lục quốc phong tướng”. Phía trên án thờ là bức phù điêu cuốn thư hình dơi, với chữ “Thiên Hậu Cung” ở chính giữa, hai bên là chữ “Hà Chương” và “Hội Quán”.
Từ tiền điện, có thể theo hành lang bên trái vào gian thờ Quan Âm Bồ Tát, được đặt hướng ra thiên tỉnh. Tượng Quan Âm Bồ Tát ngồi trên tòa sen, mặc áo gấm thêu. Phía trên khám thờ là bức hoành phi ghi chữ “Từ hàng phổ độ” (Thuyền từ cứu giúp chúng sinh).
Quan Thánh Đế Quân được thờ ở gian bên phải thiên tỉnh, hai bên là tượng Châu Xương và Quan Bình. Phía trên khám thờ là hoành phi “Trung nghĩa thiên thu” (Ngàn đời trung nghĩa). Phía trước có bộ sáu món binh khí bằng gỗ. Ở góc trái, có bàn thờ Mã Tướng Quân với tượng Mã Tướng Quân và ngựa Xích Thố. Bên cạnh là Quan Đế là gian thờ Tể Thiên Đại Thánh với tượng cầm Thiết Bản. Kế tiếp là gian thờ Bao Công, Thái Tuế Gia Gia và Thành Hoàng. Chếch về phía trái, là tượng Thần Tài cao khoảng 1,6 mét, đứng sau bàn thờ nhỏ, gần hành lang.
Trung điện có diện tích khá nhỏ, chỉ bày ba đỉnh hương lớn theo một hàng ngang.
Chính điện chiếm diện tích lớn hơn cả và được bài trí trang trọng.
Ba gian thờ phía cuối chính điện được trang trí bằng bao lam và bình phong gỗ chạm trổ tinh tế, sơn son thếp vàng. Các khám thờ đều được kê trên bệ cao khoảng 1 mét, với chạm trổ đơn giản nhưng có những mô típ độc đáo. Ví dụ, ở góc khám thờ Thiên Hậu có tượng kỳ lân, góc khám thờ Chúa Sinh Nương Nương có tượng Lư Hải cưỡi ếch, và khám thờ Phúc Đức Chính Thần cũng được trang trí đặc sắc.
Trước mỗi khám thờ là hai hương án được đặt song song. Dọc hai bên hương án trước khám thờ Thiên Hậu có hai bộ binh khí, mỗi bộ gồm 8 loại binh khí được dựng thẳng trên giá gỗ.
Khám thờ Thiên Hậu cao hơn 2 mét. Tượng Thiên Hậu bằng gỗ, cao khoảng 1 mét, trước tượng Bà còn có hai tượng ngọc nữ và tượng Thiên Lý Nhãn, tượng Thuận Phong Nhĩ.
Hai bên là gian thờ Chúa Sinh Nương Nương và Phúc Đức Chính Thần, đều được chạm khắc bằng gỗ, cao khoảng 80 cm. Cạnh tượng Chúa Sinh còn có hai tượng ngọc nữ và một số tượng bà mụ trên tay bồng đứa trẻ.
Giống như các hội quán, đền miếu khác của người Hoa, Hội quán Hà Chương có khá nhiều hoành phi, liễn đối. Nội dung hoành phi ca ngợi các thần thánh rất hiển linh, vì nước vì dân, cảm hóa khắp muôn phương, làm cho biển yên sóng lặng, mọi người đều mang ơn…
Hàng năm ngoài các ngày Tết Nguyên Đán, Tết Đoan Ngọ, lễ Vu Lan… tại Hội quán Hà Chương còn có các ngày cúng theo âm lịch khác. Vào những ngày này không chỉ đông đảo người Phúc Kiến mà còn có rất nhiều người Việt đến tế lễ, bày tỏ lòng thành kính. Và ngoài giá trị về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc đá, chạm khắc gỗ, Hội quán Hà Chương còn thể hiện sự giao lưu văn hóa, sự đoàn kết giữa người Việt – Hoa.










