Hội quán Lệ Châu

Bấm để nghe audio thuyết minh

Được xây dựng sớm nhất tại TPHCM và cả vùng Nam Bộ từ năm 1892. Hàng năm, theo Âm lịch, Lễ Giỗ Truyền thống Tổ nghề Thợ bạc Việt Nam được tổ chức trong ba ngày từ ngày 06-08/02, quy tụ đông đảo các nghệ nhân thợ bạc từ khắp các vùng Nam Bộ.

Thông tin cơ bản

Địa chỉ 586 Trần Hưng Đạo, Phường 14, Quận 5, Hồ Chí Minh
Giờ mở cửa 08:00 – 16:00h mỗi ngày
Cấp Di tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp Quốc gia năm 1998

Giới thiệu di tích

Nơi đây không chỉ mang đậm dấu ấn giao thoa văn hóa Việt – Hoa mà còn là nơi linh thiêng thờ Tổ nghề thợ bạc và các vị thần bảo trợ ngành kim hoàn. Nơi đây là một trong những nơi ghi dấu quá trình đặt nền móng nghề kim hoàn tại khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn xưa.

Nghề chạm vàng bạc, hay còn gọi là nghề kim hoàn, có nguồn gốc lâu đời tại Việt Nam. Tuy nhiên, tên gọi “kim hoàn” chỉ xuất hiện vào thế kỷ VI nhờ công lao của ba anh em thợ vàng bạc họ Trần – Trần Hòa, Trần Điện, và Trần Điều, người làng Định Công, Hà Nội. Các ông đã học được kỹ thuật làm đồ vàng bạc tinh xảo từ các nước láng giềng và truyền lại cho dân làng, tạo nên một nghề truyền thống. Về sau, các cửa hàng vàng bạc đều lấy tên “Kim hoàn” và thợ làm đồ trang sức được gọi là thợ kim hoàn để tưởng nhớ ba vị Tổ nghề này.

Mặc dù nghề kim hoàn có thể được ghi nhận rõ ràng từ thế kỷ VI, nhưng nghề chạm vàng bạc ở Việt Nam thực tế đã tồn tại từ trước thời Lý, khoảng trên 2.000 năm. Những ghi chép cổ từ Trung Quốc và kết quả khảo cổ học đã phát hiện các đồ trang sức bằng vàng, ngọc từ thế kỷ II – III sau Công nguyên. Nghề vàng bạc ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ VII, đặc biệt dưới thời Lý và Trần, với kỹ thuật chế tác đạt trình độ cao.

Vào năm 1289, dưới thời nhà Trần, nghề kim hoàn Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là việc sản xuất nhiều đồ vật bằng vàng bạc, trong đó có một bộ đồ mỹ nghệ cho triều đình. Liên quan đến nghề kim hoàn, Hội quán Lệ Châu tại khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) là nơi thờ các vị tổ nghề thợ bạc. Hội quán này không chỉ gắn liền với cộng đồng người Hoa mà còn có sự kết nối sâu sắc với người Việt.

Hội quán Lệ Châu đã được xây dựng từ trước năm 1893, và điều này được xác nhận qua một tấm bi ký có niên đại Quý Ty (1893). Tấm bia này ghi lại nội dung về việc trùng tu hội quán, trong đó nhấn mạnh công lao của các vị Tổ sư và sự đoàn kết của cộng đồng trong việc xây dựng. Dù không phải là công trình kéo dài hàng thế kỷ, nhưng việc xây dựng hội quán này đã tiêu tốn nhiều tài lực, công sức và mang lại những lợi ích cho cả cộng đồng. Việc tạo dựng nên hội quán là minh chứng cho sự thành công của những người thợ bạc và sự tôn vinh nghề truyền thống.

Theo bia ký, hội quán được xây dựng với lòng thành kính và sự đóng góp của cộng đồng, dù chi phí có thể lớn nhưng tất cả đều đồng lòng và xem đó là việc làm cần thiết để ghi nhớ công lao của các tổ sư nghề thợ bạc. Đây cũng là nơi thể hiện sự gắn kết giữa các thế hệ thợ bạc, dù có khác biệt về tầng lớp hay vị trí xã hội, tất cả đều là một phần của nghề này. Như vậy, hội quán không chỉ là một di tích văn hóa mà còn là biểu tượng của sự đoàn kết và truyền thống của nghề thợ bạc. Bên cạnh kim hoàn, người Hoa phát triển mạnh ở khu Sài Gòn – Chợ Lớn còn tham gia vào hầu hết nghề nghiệp, từ công nghiệp đến ngân hàng, công nghiệp nhẹ và các loại thủ công như gốm sứ, chạm khắc đá, gỗ, thuộc da,… 

Mặc dù chưa có thông tin chính xác về năm chính thức xây dựng Hội quán Lệ Châu, nhưng các nghiên cứu và bi ký cho thấy hội quán đã tồn tại ít nhất từ trước năm 1893 và đã trở thành một di tích quan trọng trong cộng đồng người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy tính đến nay, Hội quán Lệ Châu đã tồn tại và phát triển hơn 120 năm, là ngôi nhà thờ Tổ nghề Thợ Bạc sớm nhất tại Sài Gòn – Chợ Lớn và cả vùng Nam Bộ.

Hàng năm, Hội quán Lệ Châu tổ chức lễ giỗ Tổ “Đệ nhị Tổ sư” Cao Đình Hương vào mùng 6, 7 và 8 tháng 2 âm lịch. Lễ bắt đầu từ mùng 6 với lễ Trần thiết, mùng 7 là lễ Chánh tế, và mùng 8 là lễ Tế nghĩa. Lễ vật cúng Tổ gồm một con heo đồ và hai con vịt trắng. Món ăn chính trong ngày giỗ là thịt vịt, tượng trưng cho sự trong sạch và đạo đức của nghề thợ bạc. Lễ Chánh tế vào lúc 22 giờ ngày 7 tháng 2 do thầy lễ và trò lễ thực hiện, với các nghi thức tế ẩm thực, quả phẩm, trà và kết thúc bằng thủ tục đốt sớ.

Lễ giỗ Tổ không chỉ là dịp để bày tỏ lòng thành kính với Tổ nghề, mà còn là cơ hội cho các thợ bạc từ khắp nơi, đặc biệt là các vùng Nam Kỳ, tụ hội, trao đổi kinh nghiệm và giao lưu buôn bán. Hội quán Lệ Châu không chỉ giữ gìn nghề thợ bạc mà còn là một di tích văn hóa, nghệ thuật, phản ánh sự giao thoa giữa người Việt và người Hoa trong kiến trúc Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Các chi tiết chạm khắc tinh xảo như tứ linh, lưỡng long, hoa mẫu đơn, hoa sen, và chim công trên kết cấu kiến trúc và đồ thờ cúng là minh chứng cho tài hoa của cộng đồng Việt – Hoa.

Trải qua bao thăng trầm, nhất là biến cố lịch sử những năm đầu thế kỷ XX, có lúc tưởng chừng Hội quán Lệ Châu không thể duy trì sinh hoạt, phát huy truyền thống nghề kim hoàn. Nhưng bằng quyết tâm tiếp tục gầy dựng, bảo quản nhà thờ Tổ, các chủ lò Thợ Bạc, các Thợ Bạc lúc bấy giờ cũng như các thế hệ đệ tử, chân truyền đã một lòng đoàn kết. Để đến hôm nay, Hội quán Lệ Châu vẫn lưu giữ trọn vẹn những nét đẹp giá trị tinh thần, giá trị lịch sử – văn hóa uống nước nhớ nguồn, truyền thống đoàn kết gắn bó, quang đại nghiệp Tổ, đóng góp một phần vào sự nghiệp giữ gìn và phát huy di sản văn hóa của quốc gia.

Lên đầu trang